Bệnh U Xơ Tử Cung
U xơ tử cung (UXTC) là u lành tính ở tử cung, thường gặp ở phụ nữ từ 30 đến 50 tuổi. Có nhiều giả thuyết về cơ chế sinh lý bệnh của U xơ tử cung, trong đó giả thuyết về cường estrogen được nhiều tác giả ủng hộ.
Có nhiều bằng chứng cho thấy UXTC có liên quan đến hormone sinh dục nữ, vì không gặp bệnh này trước tuổi dậy thì, nó cũng thoái hoá sau tuổi mãn kinh. UXTC có các thụ thể tiếp nhận các steroid sinh dục (estrogen và progesterone); UXTC phát triển rất nhanh trong thời gian thai kì, khi mà nồng độ estrogen và progesteron trong máu cao. Khi cường estrogen tương đối sẽ kích thích sự tổng hợp protein ở cơ tử cung. Trong khi có thai, estrogen làm tăng sự hoạt động actinmyosin làm cho tế bào cơ tử cung phát triển. Bằng thực nghiệm một số tác giả đã nhận thấy estrogen liều cao gây ra UXTC.
U xơ tử cung là gì?
U xơ tử cung có hình tròn hoặc bầu dục, mật độ chắc, có lớp vỏ bao bọc bên ngoài nên giới hạn rõ với lớp cơ tử cung. Khi cắt ngang u, mặt cắt có màu trắng. U có cấu trúc cơ trơn được nuôi dưỡng bằng những mạch máu ở bên ngoài và các chất dinh dưỡng được thấm qua màng của vỏ u. Đôi khi có những mạch máu rất nhỏ chạy sâu vào trung tâm của u, vì vậy u luôn thiểu dưỡng dễ làm nó bị hoại tử vô khuẩn. Số lượng nhân của UXTC không cố định, có thể chỉ có một nhân kích thước to hoặc nhiều nhân có kích thước nhỏ hay vừa phải. Vị trí của những nhân xơ cũng thay đổi tuỳ từng cá thể.
UXTC được cấu tạo bằng những sợi cơ trơn sắp xếp theo hình tròn đồng tâm từ ngoài vào trong, các sợi cơ xen kẽ với nhau. Nhân tế bào có hình bầu dục, tròn, tỉ lệ nhân, nguyên sinh chất cân đối. Xen kẽ với sợi cơ trơn là tổ chức liên kết. Khi mãn kinh, số lượng sợi cơ trơn giảm, u nhỏ dần, thay vào đó là các sợi collagen kèm theo sự canxi hoá. Những rối loạn vận mạch của của động mạch hay tĩnh mạch gây nên các hiện tượng thoái hoá vi thể của UXTC có thể làm u biến đổi hoặc thoái hoá. Việc thoái hoá thường gặp là do tắc các tĩnh mạch từng phần làm cho u mềm, các sợi cơ bị tách rời ra rồi phân rã gây nên tình trạng hoại tử vô khuẩn.
Thoái hoá kính: là tình trạng những sợi cơ trơn và tổ chức liên kết mất đi, thay vào đó, sự thoái hoá kính, toàn bộ u là một khối trong suốt không còn thấy các tế bào. Khi tắc mạch hoàn toàn, u thoái hoá nhày hoặc như chất keo.
Thoái hoá nhiễm khuẩn: những trường hợp u có cuống dài dễ bị xoắn gây thiểu dưỡng, có thể bị hoại tử, hoặc là do sang chấn, vi khuẩn xâm nhập vào u gây nên hiện tượng hoại tử nhiễm khuẩn.
Nếu rối loạn co thắt mạch máu làm tắc mạch gây nhồi máu sẽ dẫn đến hoại tử. Nếu phạm vi nhồi máu nhỏ, u trở nên phù nề, sợi cơ mất nhân. Khi nhồi máu lan rộng, u như miếng thịt chín, màu đen và chảy ra chất dịch màu hồng.
Thoái hoá vôi: kết thúc quá trình hoại tử, calci lắng đọng ở trung tâm và giữa các sợi cơ. Calci hoá có thể ở vùng giữa và lan toả ra xung quanh, lúc đó nắn thấy u rắn và có thể phát hiện được bằng X-quang hay siêu âm.
Ung thư hoá: chiếm một tỷ lệ rất thấp, thường bắt đầu ở vùng trung tâm. U trở nên mềm, vùng tổn thương lan toả, không rõ ranh giới với những vùng xuất huyết, khó bóc tách. Về vi thể có bất thường về tế bào và nhiều nhân phân chia.
TRIỆU CHỨNG
Những triệu chứng chính
– Cơ năng: ra huyết là triệu chứng chính, gặp trong 60% trường hợp. Biểu hiện là cường kinh với lượng máu nhiều, máu cục lẫn máu loãng, sẽ dẫn đến rong kinh, rong huyết gây thiếu máu cho bệnh nhân. Đau vùng hạ vị hoặc vùng hố chậu. Đôi khi bệnh nhân có cảm giác tức nặng vùng hạ vị, tăng lên trong thời gian hành kinh. Khí hư ra nhiều, loãng như nước…
– Thực thể: nắn bụng có thể xác định được đáy tử cung, u thường ở giữa vùng hạ vị, gõ đục, di động, mật độ chắc. Thăm khám âm đạo kết hợp với nắn bụng thấy toàn bộ tử cung to, chắc, bờ nhẵn, đều. Đôi khi thấy những khối nổi trên bề mặt tử cung chắc và không đau. U di động cùng với tử cung. Thăm khám trực tràng giúp phân biệt UXTC phát triển về phía sau hay u trực tràng. Đo buồng tử cung tuy ít giá trị nhưng có thể cho thấy buồng tử cung dài hơn bình thường.
– Siêu âm: hình ảnh u cơ trơn là một tổ chức đậm âm vang và đồng nhất, khác biệt với âm vang của cơ tử cung. Chẩn đoán siêu âm có thể khó khăn ở trường hợp u nang buồng trứng dính với tử cung. U cơ dưới thanh mạc là dễ nhận ra nhất, làm biến dạng hình dáng tử cung. Tuy nhiên khi u có cuống có thể nhầm với u thể đặc buồng trứng .
– Chụp buồng tử cung: luôn là phương pháp cần thiết, cho biết các thông tin trực tiếp về u, những tổn thương phối hợp như quá sản niêm mạc tử cung, hay ung thư thân tử cung phối hợp.
– Soi buồng tử cung: khi u bé và nằm dưới niêm mạc thì soi buồng tử cung nhìn thấy rõ hơn.
BIẾN CHỨNG NGUY HIỂM
– Chảy máu: hay gặp trong u cơ dưới niêm mạc. Ra máu là một dấu hiệu và biến chứng hay gặp của u cơ nhẵn tử cung gây nên tình trạng rong kinh, rong huyết. Ra máu là do quá sản niêm mạc tử cung vì mất cân bằng estro-progestatif (đáp ứng tốt với điều trị bằng progestatif), hoặc do teo niêm mạc tử cung, hay do rối loạn sự đáp ứng của niêm mạc tử cung đối với estrogen; cũng có thể là do u xơ dưới niêm mạc gây loét, nhiễm khuẩn, viêm niêm mạc tử cung gây chảy máu. Ra huyết kéo dài dẫn đến thiếu máu mạn tính và nhược sắc. Mức độ thiếu máu được xác định qua công thức máu và nồng độ hemoglobin.
– Chèn ép: khi kích thước nhân u cơ nhẵn tử cung to lên sẽ chèn ép vào các tạng lân cận và là một biến chứng thường gặp. Mức độ biến chứng này phụ thuộc sự phát triển của u. Với u phát triển trong dây chằng rộng, sẽ chèn ép vào niệu quản dẫn đến hậu quả là giãn đài bể thận. Khi u chèn ép vào trực tràng sẽ gây táo bón trường diễn, thậm chí gây tắc ruột. U xơ có thể bị kẹt trong tiểu khung, chèn ép vào các động và tĩnh mạch chậu làm cho chi dưới bị phù nề.
– Xoắn: thường gặp các loại u dưới phúc mạc có cuống , biểu hiện đau hố chậu dữ dội, kèm theo dấu hiệu kích thích phúc mạc như nôn, bí trung tiện. Toàn thân suy sụp, mạch nhanh, choáng và bụng chướng đau.
– Nhiễm khuẩn: tương đối hiếm gặp thường xảy ra ở những u dưới niêm mạc hay polip thò ra khỏi cổ tử cung bị nhiễm khuẩn hoặc hoại tử. Bệnh nhân có những cơn đau bụng, siết, bạch cầu tăng và toàn thân suy sụp.
Khoa học phổ thông