Trinh Nữ Hoàng Cung , một loại thảo dược được lưu truyền trong dân gian với nhiều tính năng chữa bệnh. Thời gian gần đây trên thị trường xuất hiện nhiều sản phẩm được cho là sản xuất từ Trinh Nữ Hoàng Cung, có thể trị được nhiều bệnh nan y. Tiến sĩ- dược sĩ Nguyễn Thị Ngọc Trâm- người đã nhiều năm nghiên cứu về cây Trinh Nữ Hoàng Cung và chiết xuất thành công hợp chất từ lá cây này tạo thành viên nang CRILA để chữa chứng phì đại lành tính tuyến tiền liệt, u xơ tử cung – đã dành cho PV báo khoa học và đời sống một cuộc trao đổi về thông tin trên.
Tiến sĩ – dược sĩ Nguyễn Thị Ngọc Trâm cho biết: Trinh Nữ Hoàng Cung vốn là cây hoang dại, thường gặp ở các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tuy Hoà, Huế của Việt Nam (tên khoa học là Crinum Latifolium L. ). Trước đây quan ngự y trong hoàng cung thường dùng lá cây Trinh Nữ Hoàng Cung để chữa ung thư vú, ung thư tử cung cho các phi tần mỹ nữ và chữa ung thư nhiếp hộ tuyến cho các quan thái giám.
Trinh Nữ Hoàng Cung thuộc họ Thuỷ Tiên Amaryllidaceae, cùng họ với cây Náng, cây hành tây, cây tỏi lơi. Trinh Nữ Hoàng Cung còn có tên gọi khác là hoàng cung trinh nữ, tây nam văn châu lan, thập bát học sĩ, đại tướng quân, tỏi thái lan.
Trinh Nữ Hoàng Cung là một loại cỏ, đường kính từ 10-15 cm, rộng 3-8cm, bẹ lá úp vào nhau tạo thành thân giả , lá mỏng có thể dài 80-100cm, hai bên mép lá lượn sóng. Gân lá song song, mặt trên lá lõm thành rãnh, mặt dưới lá có một sống lá nổi rất rõ, đáy bẹ lá nơi sát đất có màu tím. Hoa mọc thành tán có từ 6-18 hoa, trên một cán hoa dài 20-60cm. Cánh hoa màu trắng có điểm màu tím đỏ, từ thân hành mọc rất nhiều củ con có thể tách ra để trồng riêng một cách dễ dàng.
Ở Việt Nam có 12 cây thuộc chi Crinum giống cây Trinh Nữ Hoàng Cung, trong đó cây náng trắng có độc tính cao, ảnh hưởng đến gan, thận. Nếu không kiểm tra ADN và nhiễm sắc thể, không có hồ sơ nghiên cứu về độc tính của cây thì nguồn nguyên liệu chắc chắn sẽ không bảo đảm.
Hiện nay trên thị trường đã có sản phẩm trà hoặc thuốc chiết xuất từ cây Trinh Nữ Hoàng Cung, người bệnh có thể tìm mua để đảm bảo an toàn sự an toàn sức khỏe, không nên tùy tiện dùng lá cây tươi, sẽ rất nguy hiểm. Nhưng khi tìm mua các sản phẩm từ Trinh Nữ Hoàng Cung nên chọn sản phẩm có xuất xứ rõ ràng, được hội đồng khoa học chứng nhận quá trình nghiên cứu lâm sàng …
Gần đây trên thị truờng, xuất hiện nhiều loại thực phẩm chức năng chiết xuất từ Trinh Nữ Hoàng Cung với những lời quảng cáo rất kêu là có thể điều trị được nhiều loại bệnh như: Thanh nhiệt, giải độc, tiêu sưng, giảm đau, kháng khuẩn, chống viêm, tăng cường sức đề kháng, miễn dịch của cơ thể chống lại bệnh tật, điều trị u xơ tử cung, u nang buồng trứng, u tuyến tiền liệt ở nam giới, thậm chí là cả viêm gan…Là người nhiều năm nghiên cứu về cây Trinh Nữ Hoàng Cung, ý kiến của bà về vấn đề này?
Thực phẩm chức năng không phải là thuốc nên không thể có chỉ định liều dùng. Và nó chỉ có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh.
Về tác dụng của cây Trinh Nữ Hoàng Cung trong chữa bệnh đã được nghiên cứu và chứng minh. Nhưng rất nhiều người bệnh đã nhầm lẫn và xem Trinh Nữ Hoàng Cung như một “thần dược” có thể trị bách bệnh. Trên thị trường có nhiều sản phẩm thuốc, thực phẩm chức năng, trà, lá cây phơi khô nhưng độ an toàn và tác dụng của nó thật khó kiểm soát
Gần 20 năm nghiên cứu chúng tôi chỉ mới ghi nhận lá cây Trinh Nữ Hoàng Cung chữa bệnh u xơ tiền liệt tuyến ở nam giới và u xơ tử cung ở nữ giới và hiện nay đang tiếp tục nghiên cứu đến các bộ phận khác của cây. Nếu có sản phẩm nào khác khẳng định chữa được nhiều bệnh từ cây Trinh Nữ Hoàng Cung thì theo tôi đó là lừa dối người tiêu dùng. Theo nghiên cứu của tôi đã được hội đồng khoa học nghiệm thu thì lá cây Trinh Nữ Hoàng Cung có hiệu quả cao đối với các khối u xơ tử cung và phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Hiệu quả cao không có nghĩa là chữa trị được 100%, chữa được hay không còn tuỳ thuộc vào kích thước khối u to hay nhỏ. Và không phải khối u nào cũng chữa được.
Tiến sĩ có thể nói rõ hơn về khả năng chữa bệnh u xơ tử cung và phì đại lành tính tuyến tiền liệt của thuốc CRILA chiết xuất từ lá Trinh Nữ Hoàng Cung?
Từ năm 1990, chúng tôi bắt đầu nghiên cứu cây thuốc này nhưng sau 15 năm viên nang CRILA mới ra đời và chỉ mới sử dụng đến bộ phận lá của cây. Củ và hoa của cây Trinh Nữ Hoàng Cung còn chứa nhiều hợp chất kháng u bướu, ức chế tế bào u. Thời gian tới chúng tôi sẽ công bố kết quả về công trình nghiên cứu trên hoa và củ của cây này.
Viên nang CRILA có khả năng chữa trị căn bệnh u xơ tử cung, phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Ngày 21-7-2005, Cục Quản lý Dược Việt Nam đã chính thức cấp phép cho CRILA lưu hành tại Việt Nam.
Hội đồng khoa học nghiên cứu cấp Bộ đã đánh giá viên nang CRILA đạt hiệu quả 89,18% với bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Viên nang CRILA còn được sử dụng trong điều trị u xơ tử cung đã được nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng tại bệnh viện Phụ Sản TW, kết quả đạt 79,5%. Ngoài ra thuốc còn có tác dụng điều trị hỗ trợ cho các bệnh nhân ung thư, hỗ trợ điều trị kích thích hệ miễn dịch, tăng sức đề kháng cơ thể để chống lại sự sản sinh của tế bào ung thư và di căn sau khi phẫu thuật. Về tác dụng trong điều trị ung thư đang được tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng tại các bệnh viện ung bướu.
Để được tư vấn kỹ hơn về sản phẩm này bệnh nhân có thể liên lạc trực tiếp với tôi theo số:08.62647547
ĐÔNG HƯỜNG (thực hiện)
Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Trâm sinh năm 1950. Năm 24 tuổi, bà từng được giới khoa học trong nước biết đến với công trình nghiên cứu chiết xuất tinh dầu từ cây húng chanh ( Coleus aromaticus Benth. Labiatae) điều chế thuốc ho cho trẻ em. Năm 1984 Tiến sĩ Trâm trúng tuyển kì thi tuyển chọn nghiên cứu sinh toàn quốc và được nhà nước cử đi nghiên cứu sinh ở Bulgaria năm 1985. Năm 1990 bà bắt tay nghiên cứu về tác dụng của cây Trinh Nữ Hoàng Cung. Đến năm 2005 công trình nghiên cứu của bà đã thành công với sự ra đời của viên thuốc CRILA, công trình nghiên cứu của bà đã được cấp bằng sở hữu trí tuệ. Bà là cá nhân duy nhất nhận giải thưởng Kovalevskaia năm 2007. Đây là giải thưởng giành cho những cá nhân, tập thể có nhiều đóng góp trong nhiên cứu khoa học tự nhiên, y khoa. Ban đầu quỹ giải thưởng chỉ có ở Việt Nam, sau đó được phát triển sang Nicaragoa, En xanvado, Pêru và Nam phi.
Hiện bà vẫn tiếp tục nghiên cứu những tác dụng khác của các bộ phận cây Trinh Nữ Hoàng Cung. Bà là chủ nhiệm nhiệm vụ “ Nghiên cứu khả năng kích thích hệ miễn dịch chống ung thư của các Alcaloids và flavonoid được chiết xuất từ cây Trinh Nữ Hoàng Cung để sử dụng làm nguyên liệu sản xuất thuốc hỗ trợ điều trị ung thư”- đây là một trong 46 nhiệm vụ hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học và công nghệ theo nghị định thư bắt đầu từ năm 2007 của chính phủ. Ngoài ra, bà đang nghiên cứu phối hợp Trinh Nữ Hoàng Cung với một vài loại cây thuốc nam khác, hỗ trợ trong việc điều trị các bệnh nhân AIDS.
Theo thống kê tại châu Âu, với nam giới sau 40 tuổi, tỉ lệ mắc chứng phì đại tuyến tiền liệt là 80,1%. Tỉ lệ mắc bệnh tăng dần theo độ tuổi. Tại Hoa Kỳ, tỉ lệ người mắc bệnh này ở tuổi 40 là 25%, ở tuổi 70 là 80%. Ở Việt Nam, theo một điều tra của Giáo sư Trần Đức Thọ – Viện trưởng Viện Lão khoa; Trưởng khoa Nội tiết – Đái tháo đường Bệnh viện Bạch Mai; Chủ tịch Hội Nội tiết – Đái tháo đường Việt Nam và cộng sự vào năm 1990, có tới 59,18% nam giới trên 50 tuổi và 76,92% từ 75 đến 79 tuổi mắc chứng bệnh này.
Nếu có thể bào chế thành công loại thuốc đặc trị là rất quan trọng. Nhiều hãng dược phẩm lớn trên thế giới đã đầu tư hàng trăm triệu đôla, tốn rất nhiều thời gian và công sức nhưng kết quả đạt được vẫn còn rất hạn chế. Chưa có một loại thuốc nào thực sự có hiệu quả trong việc điều trị giúp người bệnh khỏi bệnh hoàn toàn. Trong nước, biện pháp điều trị phổ biến nhất là phẫu thuật.
CRILA được hội đồng Khoa học cấp nhà nước thẩm định, ghi nhận là một trong những thành tựu lớn của nền y học Việt Nam. Bởi đến nay trên toàn thế giới, chỉ có ba loại thuốc từ thảo dược chữa được căn bệnh này.
GS-Tiến sĩ Phạm Thanh Kỳ đã nhận xét: “ Đề tài nghiên cứu “Đánh giá hiệu quả và khả năng chấp nhận thuốc CRILA trong điều trị u xơ tử cung” do Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Trâm thực hiện có tính thực tiễn cao và phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra phác đồ điều trị an toàn từ nguồn dược liệu trong nước. Phương pháp nghiên cứu của đề tài đảm bảo tính khoa học, khách quan, kết quả đáng tin cậy. Về sản phẩm, viên thuốc đồng nhất, đảm bảo tiêu chuẩn. Về giá thành đợt điều trị rẻ hơn so với thuốc ngoại nhập”…