n thế giới có tác dụng đối vớCrila là viên thuốc đầu tiên trêi bệnh u xơ tử cung và là một trong ba viên thuốc điều trị Phì đại lành tính tuyến tiền liệt

Báo chí

Chuyện dạy con, chăm gia đình của một Anh hùng Lao động

06/06/2016

PNTĐ-GS Trương có sức ảnh hưởng rất lớn tới các con của mình. Cả 4 người con của ông sau này lớn lên đều tốt nghiệp ĐH, được nhận học bổng của Nhà nước đi học ở Nga, Bulgaria…

Sinh thời, GS Nguyễn Văn Trương (quê Nghệ An) được giới khoa học cả nước coi là nhà sinh thái học hàng đầu của Việt Nam. GS nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Sinh thái, Tổng Biên tập bộ “Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam”, được phong Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới năm 2005 khi đã 83 tuổi. Nối tiếp truyền thống của cha, cả 4 người con của GS Trương đều thành đạt, trong đó có trưởng nữ, Tiến sĩ-Dược sĩ Nguyễn Thị Ngọc Trâm-người đã bào chế thành công thuốc điều trị bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt và u xơ tử cung từ cây trinh nữ hoàng cung.

Nhà khoa học lớn “đa tài”

Có thể nói, suốt cuộc đời, GS Trương luôn ý thức phải sống, làm việc và cống hiến hết mình cho cộng đồng. Trong tác phẩm Quốc học Huế xưa và nay do NXB Văn hóa Thông tin xuất bản, ban biên tập gồm các nhà văn, nhà báo nổi tiếng như Trần Phương Trà (chủ biên), Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Xuân Hoa, Phạm Khắc Lãm… đã nhận định:

“Nguyễn Văn Trương là người thông minh, ham học hỏi, tính tình sôi nổi, có những đóng góp thiết thực cho cuộc sống. Ông được giới khoa học cả nước coi là nhà sinh thái học hàng đầu của Việt Nam. Cả cuộc đời, ông đem hết tâm sức tìm hiểu nghiên cứu về rừng Việt Nam và đã có những đóng góp lớn lao cho việc bảo vệ rừng, khai thác, tu bổ rừng ở nước ta”.

Gia đình GS Nguyễn Văn Trương

GS Trương xuất thân trong gia đình khá giả (thân phụ của GS là hiệu trưởng trường tiểu học) nhưng lối sống lại rất giản dị, đạm bạc và luôn nghĩ cho người dân nghèo. TS Nguyễn Thị Ngọc Trâm nhớ lại: “Khi chứng kiến những nông dân nghèo gặp nhiều khó khăn khi sinh sống trên ba hệ sinh thái đặc thù kém bền vững, từ vùng đồng bằng úng ngập nước, vùng cát hoang hóa ven biển và vùng đồi núi trơ trọc, cha tôi đã nảy sinh ý tưởng về làng sinh thái-không gian sống của nhiều loại sinh vật, trong đó đặc biệt là con người với nhiều cảnh quan nhân tạo đan xen với cảnh quan tự nhiên. Để có kinh phí thực hiện ý tưởng sáng tạo này, trên cương vị của người đứng đầu Viện Nghiên cứu Kinh tế Sinh thái, cha tôi đã đề xuất với các tổ chức như CCFD (Ủy ban Công giáo chống đói nghèo và vì phát triển) của Pháp và các nhà tài trợ nước ngoài khác đầu tư cho Viện để thực hiện công trình, qua đó giúp tăng sản lượng nông nghiệp – lâm nghiệp, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất, cải thiện cơ sở vật chất hạ tầng, nâng cao giáo dục cho người dân”.

Khoảng năm 1947, khi chưa tròn 30 tuổi, ông đã viết nhiều tác phẩm văn học được giải thưởng, trong đó sâu sắc nhất có thể kể đến tác phẩm “Dòng chiến sĩ” nói về tình cảm của người cha ở hậu phương với con trai nơi tiền tuyến. Sau này, ông đã được mời làm Tổng chủ biên cùng với hơn 1.200 nhà khoa học tham gia biên soạn trong nhiều năm bộ “Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam” gồm bốn tập dày hơn 4.000 trang khổ rộng, bao gồm 40.000 mục từ, thuộc 40 chuyên ngành văn hóa, khoa học, kỹ thuật của VN và thế giới.

GS Trương tiếp Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại trụ sở Ban biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư VN 1998

Quan niệm “tân tiến” về “bình đẳng giới”

TS Nguyễn Thị Ngọc Trâm còn nhớ, ngoài xã hội, cha mình được các đồng nghiệp, giới chuyên môn… rất nể trọng vì trí tuệ uyên bác, tác phong, cách ứng xử rất đúng mực. Ở nhà, cha bà lại là một người con rể có hiếu, người chồng rất thương vợ và người cha gần gũi, giản dị của đàn con nhỏ. Thời kháng chiến, GS- TSKH Nguyễn Văn Trương có nguyện vọng được ra Việt Bắc công tác nhưng vì bố vợ và vợ sức khỏe đều yếu nên ông chuyển sang dạy học ở trường Tân Dân gần nhà để tiện bề chăm sóc gia đình (GS Trương sống cùng bố vợ). GS có tư tưởng rất hiện đại, đó là không phân biệt “đằng nội, đằng ngoại” hay coi chợ búa, bếp núc là việc “tầm thường” của người phụ nữ. Sinh hoạt phí kháng chiến eo hẹp, ngoài dạy học, GS tận dụng những khoảng đất hoang quanh nhà để tăng gia sản xuất…

Có năm nước sông Lam tràn bờ gây ra nạn lụt, GS bơi ra giữa dòng nước và cố gắng lấy được thật nhiều củi đủ để cả nhà đun cả năm. GS chỉ nghĩ phải làm hết sức để phụ giúp gia đình. GS còn có tài muối dưa vàng rộm và làm tương ngon không khác gì tương Nam Đàn nổi tiếng.

“Khi chúng tôi còn nhỏ, cha thường bế và hát ru con. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ những câu hát ru của cha, cũng chính là bài học cha dạy con về đạo lý làm người “Con này con lắng tai/Nghe lời mẹ dặn con một, hai/Dặn cùng con chớ ham chơi bời/Nhớ phận làm trai trung hiếu hai vai” – TS về chuyên ngành xây dựng dân dụng Nguyễn Văn Hùng, con trai thứ của GS Trương nhớ lại. GS Trương rất ít khi đánh, mắng con. Thay vào đó, GS chọn cách phân tích thiệt hơn, kể cho các con nghe về tấm gương của các nhà khoa học (Newton, Kovalevskaya), nhạc sĩ lớn (Beethoven, Tchaikovski, Mozart), các nhà thơ (Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm) và các nhà văn (Victor Hugo) hay đọc cho con nghe các tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới… qua đó giúp đàn con nhận ra những bài học trân quý về lối sống đẹp, nghị lực vượt khó, truyền cho con lòng ham học, ham hiểu biết… Dù công việc bộn bề nhưng ông luôn nhận việc đi họp phụ huynh để theo dõi việc học của con. Có đợt bận công tác, về tới nhà thì kỳ họp đã qua, GS lại tới gặp trực tiếp cô giáo để hỏi tình hình. Nhưng, GS lại không cổ súy việc ép con học quá đà. GS không bao giờ cho phép con… học hè để con còn dành thời gian chơi, tập thể thao… GS thường dẫn câu nói:

“Muốn đi xa phải biết giữ con ngựa của mình”. Do đó, trước khi học giỏi thì con phải biết cân bằng cuộc sống và phải khỏe mạnh đã.

GS Trương có thời gian làm Trưởng phòng Giáo vụ đầu tiên của ĐH Nông lâm tại Hà Nội. Ngày đó, ĐH này có quy định không cho sinh viên về thăm nhà vào cuối tuần. Nhưng, GS lại làm khác đi và cho phép SV về nhà vì theo quan niệm của GS, gia đình là tế bào của xã hội và GS muốn những người con được gắn bó với gia đình. Năm 1956, vở kịch Tấm bưu thiếp của GS Trương được trao giải văn học đấu tranh cho giải phóng nước nhà. Nhà chỉ có chiếc xe đạp cà tàng cũ, nhưng, GS Trương vẫn đèo các con tới lễ nhận giải, cũng chính vì GS luôn muốn chia sẻ niềm vui, hạnh phúc của mình với các con.

Các con nối tiếp truyền thống của cha

Có thể nói, GS Trương có sức ảnh hưởng rất lớn tới các con của mình. Cả 4 người con của ông sau này lớn lên đều tốt nghiệp ĐH, được nhận học bổng của Nhà nước đi học ở Nga, Bulgaria… có 2 người con của GS đã là PGS, TS.

TS Nguyễn Văn Hùng kể, cha mình chính là tấm gương cho con về thái độ học nghiêm túc và nỗ lực không ngừng.

GS Trương có nguyện vọng làm tiến sĩ khoa học nhưng theo quy định, GS phải bảo vệ tiến sĩ trước. Những người trong hội đồng bảo vệ TS ấy lại chính là học trò của GS Trương. TS Hùng cứ ngỡ cha mình sẽ ngại ngần nhưng ông nói, đã học là phải quyết tâm và không việc gì phải xấu hổ. Năm 1976, GS Trương đã bảo vệ luận án tiến sĩ tại trường ĐH Tổng hợp Hà Nội. Hai năm sau, GS lại bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học tại trường ĐH Tổng hợp Dresden (CHDC Đức). Không được dùng tiếng Anh hay Pháp, trong 3 tháng GS Trương đã cật lực học tiếng Đức và cuối cùng bảo vệ luận án bằng tiếng Đức.

Khi TS Nguyễn Ngọc Trâm quyết định theo nghề Dược, GS Trương đã hết lòng ủng hộ con gái. Từ những năm 1970, GS Trương đã sớm nhìn ra việc phát triển dược liệu từ cây cỏ tự nhiên sẽ trở thành xu hướng của y học thế giới. Rồi ông dặn con gái: “Việt Nam mình có nhiều cây thuốc, tại sao vẫn phải nhập thuốc từ nước ngoài. Con phải cố gắng học và tìm ra được các cây thuốc quý để làm thuốc chữa bệnh cho dân”.

Giống như cha mình, dù việc học gian nan nhưng chưa bao giờ TS Trâm cho phép mình nản chí. Thời kỳ con còn nhỏ, bà phải tranh thủ thức đêm, miệt mài ôn thi và cuối cùng đã đạt điểm xuất sắc trong kỳ thi nghiên cứu sinh toàn quốc năm 1984. Sau đó, bà đã được nhận học bổng sang Bungaria làm tiến sĩ. Nhờ thành tích học tập tốt nên bà được giữ lại trường ĐH Kỹ thuật Sophia, Bulgaria nhưng nhớ lời cha dặn, bà đã trở về nước để mong góp sức vào ngành Dược nước nhà, tìm ra nhiều bài thuốc từ cây cỏ thiên nhiên Việt Nam.

Trong suốt 15 năm, TS Trâm đã miệt mài nghiên cứu, tìm cách biến cây trinh nữ hoàng cung-với nhiều công năng chữa bệnh được truyền miệng trong dân thành một sản phẩm thuốc được khoa học công nhận. Bà kể: “Trong dân gian tồn tại 7 mẫu cây giống nhau, song chỉ có một mẫu cây mới đúng là trinh nữ hoàng cung có khả năng điều trị khối u, nhiều loại cây tương tự khác nếu sử dụng nhầm còn có thể ngộ độc”.

TS Trâm đã bán đất đai, nhà cửa dồn hết cả số tiền tích cóp để mua cây giống và ươm trồng, thuần hóa cây trinh nữ hoàng cung vốn sống hoang dại trở thành một loại dược liệu sạch. Sau nhiều năm tháng miệt mài nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng theo đúng quy định của Bộ Y tế, TS Nguyễn Thị Ngọc Trâm đã thành công với viên nang Crila – được sản xuất từ các alcaloid có trong cây trinh nữ hoàng cung có tác dụng sinh học kích thích miễn dịch, ức chế sự phát triển của tế bào và là viên thuốc đầu tiên trên thế giới điều trị u xơ tử cung từ dược liệu thiên nhiên. Viên Crila giảm đến mức tối đa tác dụng phụ, thử nghiệm lâm sàng đạt kết quả thành công 79,5% đối với u xơ tử cung và 89,18% đối với phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Chỉ đến lúc này, bà mới thở phào vì đã có thể thực hiện được một phần nào đó lời dặn của cha mình.

Khi GS Trương tuổi cao, lại bị bệnh tim, những người con của ông ra nước ngoài học tập đã để tâm mua thật nhiều thuốc để cha uống. Nhưng, khi thuốc chưa về tới Việt Nam thì GS Trương đã đi xa. Bây giờ, 4 anh em vẫn giữ nhiều kỷ vật về cha mình. Trong đó, có một cuốn sổ có 2 trang GS để trắng, chỉ ghi đúng mấy chữ ở tiêu đề: “Con nhớ lời cha dặn…”. Tuy không biết cụ thể nội dung lời dặn đó là gì, nhưng, chỉ cần vậy thôi là đủ hiểu tấm lòng, tình cảm của người cha dành cho con luôn đầy ắp.

Với TS Nguyễn Thị Ngọc Trâm và các anh chị em của bà, người cha-GS Nguyễn Văn Trương luôn là một “tượng đài” vĩ đại.